Vào tháng 01/2025, Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Dữ liệu (sau đây gọi tắt là “Dự thảo Nghị định”) được soạn thảo bởi Bộ Công an và được đăng tải lên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ để lấy ý kiến góp ý đối với Dự thảo Nghị định này.
Chúng tôi, Công ty Luật TNHH ALTAS (sau đây gọi tắt là “ALTAS”/“Chúng tôi”), xin được đóng góp ý kiến về một số vấn đề quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện Dự thảo Nghị định, đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình áp dụng thi hành trong thực tiễn.
QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG
1.1. Tại Khoản 1, Điều 2 Dự thảo Nghị định đang quy định rằng đối tượng áp dụng bao gồm: “
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động dữ liệu số tại Việt Nam.”
Theo nhận định của Altas, điều khoản trên đang được quy định theo nội dung đối tượng áp dụng quy định bởi Luật Dữ liệu số 60/2024/QH15 được Quốc hội ban hành ngày 30/11/2024 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2025 (sau đây được gọi tắt là “Luật Dữ liệu”).
1.2. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại điều này (Điều 74, Bộ luật Dân sự 2015). Do đó, khi một văn bản pháp luật quy định đối tượng áp dụng bao gồm “cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam”, thì thuật ngữ “tổ chức” đã bao hàm cả pháp nhân. Vì vậy, dù không ghi rõ cụm từ “pháp nhân”, các quy định vẫn đương nhiên áp dụng đối với các pháp nhân bao gồm pháp nhân thương mại và phi thương mại.
1.3. Tuy nhiên, dù cách quy định trên không sai về mặt pháp lý, nhưng vì pháp luật có tính phổ quát nên điều khoản này cần được diễn đạt một cách trực quan, dễ hiểu, tránh tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau hoặc gây hiểu nhầm trong quá trình áp dụng thực tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh quy định về dữ liệu số là một lĩnh vực mới, có tác động sâu rộng đến nhiều chủ thể khác nhau, bao gồm cả cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế, từ các doanh nghiệp công nghệ đến các cơ quan quản lý nhà nước.
1.4. Việc quy định rõ ràng và dễ hiểu sẽ giúp đảm bảo các điều khoản được áp dụng thống nhất và chặt chẽ, giúp cá nhân, tổ chức nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ, từ đó tuân thủ đúng các quy định mà không gặp phải trở ngại về mặt diễn giải. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật không xuất phát từ ý chí cố tình vi phạm, mà từ sự thiếu rõ ràng trong cách diễn đạt điều luật, dẫn đến hiểu sai. Do đó, một quy định được soạn thảo chặt chẽ sẽ giúp giảm thiểu những tranh cãi pháp lý không cần thiết, tránh tình trạng mỗi cơ quan thực thi pháp luật có cách hiểu và áp dụng khác nhau, gây khó khăn cho doanh nghiệp và người dân trong quá trình tuân thủ.
1.5. Chúng tôi cho rằng Ban soạn thảo có thể xem xét điều chỉnh cách diễn đạt của Điều 2 Dự thảo Nghị định theo hướng cụ thể hơn, trực quan hơn. Cụ thể, bổ sung thêm khái niệm “Pháp nhân” trong phạm vi điều chỉnh để tránh bất kỳ sự hiểu nhầm nào về chủ thể chịu sự điều chỉnh của Dự thảo Nghị định. Việc làm rõ đối tượng áp dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong quá trình tuân thủ, đồng thời đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về dữ liệu số.
QUY ĐỊNH VỀ CÔNG KHAI DỮ LIỆU
2.1. Theo quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 10 Dự thảo Nghị định quy định về dữ liệu được công khai có điều kiện gồm: “
2. Dữ liệu được công khai có điều kiện gồm:
b) Dữ liệu liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được công khai trong trường hợp được người đó đồng ý; dữ liệu liên quan đến bí mật gia đình được công khai trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý;”
Trong quy định này có nhiều điểm chưa rõ ràng như: (i) việc xác định “thành viên gia đình” được dựa trên tiêu chí nào và (ii) phạm vi đồng ý của các thành viên trong gia đình khi công khai dữ liệu liên quan đến bí mật gia đình.
2.2. Tiêu chí xác định “Thành viên gia đình”
Trong trường hợp xét theo thuật ngữ “thành viên gia đình”, thuật ngữ này hiện nay đang được dẫn chiếu đến định nghĩa quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, theo đó quy định rằng: “Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.” (Khoản 16, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
Thuật ngữ “gia đình” đang có định nghĩa rằng: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (Khoản 2, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014), theo đó, một gia đình có thể có các thành viên khác ngoài các thành viên được liệt kê trên.
Ví dụ, trong một số trường hợp thực tế, những người có quan hệ thân thiết lâu dài nhưng không được liệt kê trong danh sách thành viên gia đình theo Luật Hôn nhân và Gia đình vẫn có thể được xem là một phần của gia đình theo cách hiểu thông thường. Điều này có thể bao gồm con nuôi chưa được hợp thức hóa về mặt pháp lý, hoặc những người có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng không có quan hệ huyết thống hay hôn nhân theo quy định. Bên cạnh đó, với sự phát triển của xã hội, mô hình gia đình cũng có sự thay đổi, làm xuất hiện những quan hệ gia đình mở rộng hơn so với danh sách thành viên được pháp luật công nhận.
Do đó, việc xác định ai là “thành viên gia đình” cần được xem xét không chỉ dựa trên danh mục liệt kê trong luật mà còn trên cơ sở thực tế của từng mối quan hệ trong gia đình. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, cũng như các chế độ bảo vệ đối với từng cá nhân trong gia đình.
2.3. Xác định phạm vi đồng ý
Bên cạnh đó, câu hỏi tiếp theo được đặt ra là liệu sự đồng ý này có bắt buộc phải có sự chấp thuận của tất cả các thành viên trong gia đình hay chỉ cần đa số đồng ý. Việc thiếu quy định cụ thể có thể dẫn đến những khó khăn đáng kể trong quá trình áp dụng thực tiễn, đặc biệt là trong các trường hợp tranh chấp liên quan đến dữ liệu gia đình, khi mà mỗi thành viên có thể có quan điểm và quyền lợi khác nhau.
2.4. Nếu không có sự làm rõ cụ thể, quy định này có thể gây ra mâu thuẫn giữa các thành viên, kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp và làm giảm hiệu quả thực thi của quy định. Điều này có thể dẫn đến tình trạng dữ liệu gia đình bị công khai một cách không thống nhất, gây ảnh hưởng đến quyền riêng tư và quyền lợi hợp pháp của một số thành viên trong gia đình. Do đó, việc quy định cụ thể về phạm vi và cách thức đồng ý là điều cần thiết để đảm bảo tính khả thi và minh bạch khi áp dụng vào thực tế.
2.5. Để khắc phục vấn đề này, Quý Cơ quan có thể cân nhắc hai phương án điều chỉnh sau:
- Thứ nhất, điều chỉnh trực tiếp nội dung trong Nghị định, bổ sung quy định rõ ràng về tỷ lệ thành viên gia đình cần đồng ý. Chẳng hạn, quy định có thể được sửa đổi thành: “… Dữ liệu liên quan đến bí mật gia đình được công khai khi có sự đồng ý của tất cả thành viên trong gia đình hoặc ít nhất 2/3 số thành viên gia đình đồng ý.”
Cách tiếp cận này giúp đảm bảo tính minh bạch ngay trong văn bản quy phạm pháp luật, tạo sự thống nhất khi áp dụng.
- Thứ hai, ban hành Thông tư hướng dẫn để làm rõ cách thức áp dụng quy định trên thực tế. Một Thông tư hướng dẫn có thể đưa ra tiêu chí cụ thể về số lượng thành viên gia đình cần đồng ý trong từng trường hợp khác nhau, giúp quy định trở nên linh hoạt và có thể điều chỉnh theo các tình huống thực tế mà vẫn đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan.
Việc bổ sung hoặc hướng dẫn cụ thể sẽ giúp tránh tình trạng mỗi cơ quan hoặc cá nhân có cách hiểu khác nhau về phạm vi đồng ý, đảm bảo quyền lợi của tất cả các thành viên gia đình, đồng thời giúp quy định pháp luật trở nên thực tiễn và dễ dàng áp dụng. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả thực thi quy định mà còn góp phần bảo vệ quyền riêng tư và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong một gia đình.
QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO DỮ LIỆU
3.1. Đối chiếu với quy định của Bộ luật dân sự 2015 về Quyền sở hữu
3.1.1. Theo quy định tại Luật Dữ liệu, quyền của chủ sở hữu đối với dữ liệu được xác định là quyền tài sản theo quy định của pháp luật dân sự (Khoản 15, Điều 3 Luật Dữ liệu). Điều này đồng nghĩa với việc dữ liệu được pháp luật thừa nhận như một loại tài sản, có thể được mua bán, chuyển nhượng, thừa kế hoặc thế chấp, tương tự như các tài sản khác trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam.
3.1.2. Tuy nhiên, Dự thảo Nghị định hiện nay sử dụng thuật ngữ “Chuyển giao dữ liệu”, có định nghĩa theo hướng tách riêng giữa việc chuyển quyền sở hữu và chuyển quyền sử dụng dữ liệu. Cách tiếp cận này có thể dẫn đến sự thiếu nhất quán với hệ thống pháp luật dân sự hiện hành, bởi theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, quyền sở hữu đối với tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt (Điều 158 Bộ luật Dân sự 2015). Do đó, theo quy định tại Bộ luật Dân sự khi một chủ thể được chuyển quyền sở hữu dữ liệu, họ đương nhiên có toàn quyền sử dụng và định đoạt dữ liệu đó.
3.1.3. Việc Dự thảo Nghị định tách bạch hai khái niệm này có thể khiến các bên tham gia giao dịch dữ liệu hiểu khác nhau về phạm vi quyền lợi của mình, từ đó dẫn đến nhiều tranh chấp pháp lý, ví dụ:
- Khi một bên nhận quyền sở hữu dữ liệu theo hợp đồng chuyển giao, họ có thể hiểu rằng mình đã được chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu, đồng nghĩa với việc có toàn quyền sử dụng, khai thác và chuyển nhượng dữ liệu cho bên thứ ba. Tuy nhiên, nếu bên chuyển giao chỉ đồng ý chuyển quyền sở hữu nhưng không đồng thời chuyển quyền sử dụng dữ liệu, điều này có thể dẫn đến mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên
| Chuyển giao | Chuyển nhượng | |
| Luật Sở hữu trí tuệ | “Chuyển giao” quyền sở hữu trí tuệ là việc chủ sở hữu cho phép tổ chức hoặc cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ của mình trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng không chuyển quyền sở hữu. Quyền sở hữu vẫn thuộc về bên chuyển giao, bên nhận chuyển giao không có quyền sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ (Điều 41 Luật Sở hữu trí tuệ). | “Chuyển nhượng” quyền sở hữu trí tuệ là việc chủ sở hữu chuyển giao toàn bộ quyền sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Bên nhận chuyển nhượng sẽ trở thành chủ sở hữu mới của đối tượng sở hữu trí tuệ và có toàn quyền sử dụng, khai thác, và chuyển nhượng lại nếu muốn (Khoản 1, Điều 45, Điều 138 Luật Sở hữu trí tuệ). |
| Luật Chuyển giao công nghệ | Chuyển giao được sử dụng đối với quyền sử dụng công nghệ (Khoản 7, Điều 2 Luật Chuyển giao công nghệ). | Chuyển nhượng được sử dụng đối với quyền sở hữu công nghệ (Khoản 7, Điều 2 Luật Chuyển giao công nghệ) |
| Dự thảo Nghị định | Chuyển giao dữ liệu là hoạt động chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng dữ liệu từ bên có quyền chuyển giao dữ liệu sang bên nhận chuyển giao dữ liệu (Khoản 8, Điều 13 Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Dữ liệu). |


.png)